Thiết kế và phát triển Canadair Sabre

Năm 1948, chính phủ Canada quyết định tái trang bị F-86 Sabre cho RCAF và hãng Canadair đã được chọn ký hợp đồng sản xuất ở Montreal, Quebec, Canada. Lô đầu tiên gồm 10 chiếc được đặt hàng nhằm đánh giá thử nghiệm. Chiến tranh Triều Tiên xảy ra đã làm thay đổi mọi chuyện, đơn đặt hàng đã tăng lên thành 100 chiếc. Canadair đã từ từ xây dựng cơ sở sản xuất của mình để các bộ phận cũng như thiết bị liên quan đều có thể thu mua được từ các nhà cung cấp ở Canada. Canadair đặt tên dự án Sabre của mình là CL-13.

Canadair sản xuất 6 phiên bản CL-13 Sabre. Chỉ có duy nhất Sabre Mk.1 về cơ bản giống với North American Sabre F-86A, các phiên bản còn lại có nhiều điểm khác biệt. Mk.1 có một động cơ phản lực General Electric J47-GE-13 tạo lực đẩy 5.200 lbf (23 kN). Sabre Mk.2 có cùng động cơ, sau khi 20 chiếc đầu được chế tạo, những chiếc sau đó có điểm đặc biệt là được trang bị các hệ thống điều khiển hỗ trợ điện và cánh đuôi giữ thăng bằng hoàn toàn. Chỉ có phiên bản Sabre Mk 3 sử dụng động cơ phản lực Avro Canada Orenda (Orenda 3 tạo lực đẩy 6.000 lbf (27 kN)). Sabre Mk.4 vẫn sử dụng động cơ của General Electric, được dành riêng cho Không quân Hoàng gia và sau này được bán cho không quân các nước khác. Sabre Mk.5 là phiên bản sản xuất tiếp theo, trang bị 1 động cơ Orenda 10 tạo lực đẩy 6.500 lbf (29 kN). Sabre Mk.6 trang bị động cơ Orenda 14 có lực đẩy là 7440 lbf (33 kN). Từ năm 1950 tới 1958, tổng cộng có tới 1.815 chiếc CL-13 Sabre được chế tạo tại các nhà máy của Canadair ở Montreal.